Áo khoác dáng dài để phối đồ đi đám cưới thường là sự chọn lựa của các bạn nam có dáng người cao và ham thích sự thanh lịch. Bạn nên lựa chọn những chiếc áo dạ dài có màu sắc hài hòa, không quá sặc sỡ nhé, kết hợp với quần jeans và mang một đôi giày da Các mẫu áo dài cưới cho nam Tùy theo chiều cao của bạn mà hãy chọn chiều dài của chiếc áo cho phù hợp. Nếu sở hữu chiều cao khiêm tốn, chàng nên chọn áo dài trên dầu gối khoảng chừng 10 phân. Ngược lại thì những chiếc áo dài đến đầu gối hoặc qua gối một chút sẽ là sự lựa chọn tuyệt vời nhất. Trong một bài phỏng vấn, Khánh Thi từng tiết lộ lý do chưa tổ chức đám cưới với chồng trẻ vì việc tổ chức đám cưới có hay không giờ cũng không còn quan trọng. "Trước đây, tôi cũng nghĩ tới chuyện đó. Nhưng dần dần tôi nghĩ, cái quan trọng nhất là đã sống với Đám cưới của Lê Phương quy tụ nhiều nghệ sĩ đình đám phía Nam tham dự Diễn viên vui vẻ, niềm nở đến đám cưới người yêu cũ. Trong tiệc cưới, nam diễn viên vui vẻ hội ngộ với nghệ sĩ Công Ninh. Giày cưới nam hàng hiệu Laforce. ️Chất liệu da thật cao cấp. Sản phẩm giày chú rể hiệu Laforce được sản xuất từ chất liệu da thật 100%, mang tới sự thoải mái, êm ái tối đa khi đi. ️Chất lượng vượt trội. Sản phẩm giày cưới Laforce đạt tiêu chuẩn châu Âu, được Kích thước phổ biến một nhà bạt đám cưới ( phông bạt đám cưới ) cỡ nhỏ là 4m x 3m hoặc 6m x 3m, hay loại lớn hơn là khẩu độ (chiều ngang) 7.5m, 10m, 12m, 15m, 20m mỗi nhịp 4m, 4.5m, 5m. Nhân Viên Phục Vụ Nhà Hàng Tiệc Cưới Lương Cao Tên công ty Trung Tâm Tổ Chức Hội Với phương châm uy tín - chất lượng, Cưới hỏi Hoàng Quân cam kết sẽ cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất, tiết kiệm nhất, giúp bạn có một đám cưới trọn vẹn về mặt chỉnh thể và hoàn thiện đến từng chi tiết. K2RJ9g. Vanvn- Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Nam Cao – Cái truyện sẽ làm cho Nam Cao rất nổi tiếng, thậm chí làm nên thương hiệu Nam Cao sau này, đó là Chí Phèo, viết năm 1941, mang tên Cái lò gạch cũ, khi tác giả 26 tuổi. Cái lò gạch cũ nằm trong một chùm truyện gửi đến Nhà xuất bản Đời Mới, suýt bị bỏ quên trong bồ rác, may được Vũ Bằng moi ra, đọc từ dòng đầu đã thấy lạ, liền đọc luôn một hơi, rồi quyết định cho đưa nhà in, với cái tên mới là Đôi lứa xứng đôi, kèm một lời tựa của Lê Văn Trương; một lời tựa rất ngắn mà nói rất hay, rất trúng đặc sắc của tác giả. Thế nhưng từ khởi đầu may trong rủi ấy, hành trình viết của Nam Cao vẫn rất lận đận, dẫu nhiều chục truyện ngắn vẫn lần lượt được in trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật. Xen với truyện ngắn là một số truyện dài như Ngày lụt, Cái bát, Cái miếu, Một đời người phải bán đứt bản quyền cho các nhà xuất bản để sớm có tiền, mà vẫn không được in, rồi đành để mất. Chỉ riêng Truyện người hàng xóm là được đăng tải trên Trung Bắc chủ nhật từ tháng Tư đến tháng Chín – 1944. Còn tiểu thuyết Sống mòn “viết xong tại Đại Hoàng ngày như được ghi ở cuối sách, thì đương nhiên là không thể in; rất có thể cũng sẽ chung số phận với các tiểu thuyết khác nếu không được Tô Hoài giữ hộ và mang theo trong ba lô lên Việt Bắc; rồi phải chờ đến 1956, sau khi Nam Cao mất 5 năm mới được in ở Nhà xuất bản Văn Nghệ. Bốn nhà văn, nhà báo Tô Hoài, Xuân Thủy, Nam Cao – Báo Cứu Quốc thứ nhất, thứ hai và thứ tư từ trái qua và Nguyễn Huy Tưởng – Báo Văn Nghệ. Ảnh Trần Văn Lưu Một đời văn có thể xem là lặng lẽ, chưa lúc nào tự thỏa mãn và yên tâm, hoặc tự tin về mình – một tâm thế viết rất khác với nhiều bạn văn cùng thời, không kể Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng mà ngay cả với Tô Hoài – người kém ông 5 tuổi, nhưng vào nghề lại may mắn hơn ông. Bằng chứng là Nam Cao không có tên trong bộ sách Nhà văn hiện đại, gồm 79 người, của Vũ Ngọc Phan. Bằng chứng là trong Bản tự thuật Nam Cao gửi Ban tổ chức của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1950 có một dòng “… trước 1945 không xuất bản được tác phẩm nào đáng kể”. Rồi sau đó chỉ hơn một năm là chuyến đi công tác vào vùng hậu địch Liên khu Ba, trong Đoàn cán bộ Thuế nông nghiệp, bị địch phục kích; cả mấy người cùng bị bắn và dồn vào một cái hố chôn chung; phải 46 năm sau thi hài mới được đưa về làng quê Đại Hoàng – một tên làng đã vào văn Nam Cao mà trở nên nổi tiếng làng Vũ Đại. Như vậy, nói Nam Cao là nói một số lượng trang viết không nhiều, so với các bạn viết trước và đồng thời với ông… Cái đã được in gồm khoảng ngót 60 truyện ngắn đăng tải trên báo, một số trong đó được gom vào hai tập trước 1945, là Đôi lứa xứng đôi Nxb Đời Mới; 1941, Nửa đêm Nxb Cộng Lực; 1943; và sau 1945 là Cười Nxb Minh Đức; 1946; 8 truyện viết cho thiếu nhi nay chỉ mới sưu tầm được 3; một truyện dài chỉ mới được đăng tải trên báo trước 1945; dăm truyện ngắn cùng trên một chục bút ký, nhật ký, ghi chép viết sau 1945. Cho đến ngày hy sinh, có thể nói Nam Cao chưa được hưởng những gì gọi là hào quang, hoặc vinh quang của nghề. Phải sau khi qua đời, với bài Điếu văn của Nguyễn Huy Tưởng đọc trong Lễ truy điệu ngày ở Việt Bắc; và bài Nam Cao của Nguyễn Đình Thi viết tháng đăng trên Tạp chí Văn Nghệ; rồi tiếp đó là hai hồi ký của Tô Hoài in trên báo Văn Nghệ – năm 1956 thì tổn thất về Nam Cao mới thật sự thấm thía không chỉ trong giới nghề nghiệp mà là cả công chúng đông đảo. Cũng từ đây, qua Sống mòn lần đầu được in, năm 1956, qua Chí Phèo – sau lần in thứ hai năm 1957, và nhiều chục truyện ngắn trên các báo lần đầu được sưu tầm và gom lại trong hai tập Truyện ngắn Nam Cao hóa; 1960 và Một đám cưới Nxb Văn học; 1963 thì giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc rộng rãi mới có cơ hội nhận diện một gương mặt tác gia văn học xuất sắc trong giòng văn học hiện thực trước 1945. Một tác gia thực sự có gương mặt riêng, để không những không bị khuất trong bóng rợp của những người đi trước, mà còn tự mình xác lập một vị thế mới; vị thế, theo tôi – đó là sự tiếp tục đưa lên đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực 1930-1945. *** Giá trị Nam Cao được khẳng định trước hết qua những truyện ngắn viết về làng quê Việt Nam những năm tiền cách mạng qua một nghệ thuật viết không hề lặp lại dấu ấn của tất cả những bậc tiền bối, gồm không chỉ các tác gia của Tự Lực văn đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, mà cả những tên tuổi lớn của trào lưu hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng. Đúng như lời một nhân vật của chính tác giả Cái nghề văn kỵ nhất là thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào. Tựa như trong văn học Nga phải vạch ra một lối đi mới sau các đại thụ tỏa bóng rợp cuối thế kỷ XIX như Ngay từ những truyện đầu tay Nam Cao đã rất có ý thức đem lại một nhận thức mới về người nông dân Việt trong bối cảnh làng quê đang trong một quá trình băng hoại theo hai hướng bần cùng hóa và tha hóa, nhưng tự trong căn rễ vẫn bảo lưu một giòng chảy làm nên gương mặt văn hóa, phong tục, đạo lý dân tộc trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Mỗi truyện ngắn Nam Cao như Một đám cưới, Một bữa no, Lão Hạc, Dì Hảo, Tư cách mõ, Mua danh, Đòn chồng, Rửa hờn, Rình trộm…, không chỉ là một lát cắt tươi rói của cuộc sống mà còn là những chạm khắc rất ấn tượng về những chân dung người làm nên gương mặt dân tộc một thời, thời đứng trước hai chuyển động lớn – đó là sự bần cùng hóa với những cái chết, chủ yếu là chết đói như một tiên báo cho thảm cảnh hai triệu người chết trong năm Ất Dậu; và mặt khác, là một khát vọng thoát ra khỏi mọi bủa vây dầy đặc của một sự sống đang trong… chết mòn “chết mà chưa làm gì cả; chết mà chưa sống”. Trên hành trình thâm nhập sâu vào những thảm trạng của bần cùng hóa, có một nhánh rẽ là sự tha hóa, với nạn nhân hoặc tội nhân tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo. Đó là cái tên rồi sẽ đưa Nam Cao lên tầm cao một phát hiện mang tầm vóc thế kỷ, tựa như của Lỗ Tấn, tựa như Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng. Quả hiếm, hoặc chưa có một nhân vật nào trong văn học Việt hiện đại có được một sự sống bền lâu và lan rộng như nhân vật này của Nam Cao, do sự kết hợp tính độc đáo và tính phổ quát trên tất cả các phương diện của sự miêu tả; do cái cá biệt và cái phổ biến của hình tượng là đạt tới độ tuyệt vời viên mãn; do cái sức nhìn sâu và rọi xa của một nhà hiện thực lớn; và do một cảm quan nhân đạo kết nối được những gì trái ngược mà làm nên các nghịch lý và nghịch cảnh của đời. Gắn với số phận người nông dân còn là cảnh ngộ của người trí thức nghèo – những nhà văn nghèo, những anh giáo khổ, trong một sự sống… mòn, và những kiếp đời… thừa. Khác với nhiều bạn văn, Nam Cao viết tiểu thuyết cứ như là viết tự truyện. Nhưng sau tất cả những Thứ, Điền, Hộ…, hoặc những gã, hắn, y… đó là sự khái quát chân dung một lớp trí thức có gốc rễ nông thôn, luôn mang khát vọng tìm đến một sự sống tinh thần có ý nghĩa; nhưng cuối cùng vẫn bị “áo cơm ghì sát đất”, càng dẫy dụa càng bị lún sâu hơn vào trạng thái… chết mòn; nó là một phát hiện rất kỳ thú của Nam Cao, in rất đậm một cảm quan mới về hiện thực ở Nam Cao. Và, như vậy là, với mở đầu bằng tập truyện Chí Phèo, và kết thúc bằng tiểu thuyết Sống mòn; chỉ trên dưới 5 năm – Nam Cao đã tạo ra được một thế giới riêng, in đậm một cảm quan mới về hiện thực, khác với tất cả các bậc tiền bối trên cả hai giòng lãng mạn và hiện thực. Riêng đối với tiểu thuyết, thì Sống mòn, quả đã làm được một cuộc cách tân thật ngoạn mục, nếu nhìn ngược về trước chỉ khoảng 20 năm với Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách – người khai mạc nền văn xuôi hiện đại. Một bút pháp tự sự độc đáo. Một chủ nghĩa hiện thực tâm lý nghiêm ngặt. Một cảm quan hiện thực nhìn từ bề sâu, bề trong. Một khát vọng nhân văn được chiêm nghiệm và đúc rút từ chính bản thân. Một khả năng khám phá và dự báo. Một cách khái quát giầu sức chứa và sức mở… Tất cả đã đem lại cho thiên tiểu thuyết may mắn còn sót lại và cũng là có một không hai này những giá trị có thể nói là ổn định, là trường tồn. Đây là cuốn tiểu thuyết không có cốt, không có truyện, không có gay cấn và ly kỳ; bối cảnh truyện chỉ là sinh hoạt của mấy nhà giáo dạy tư, nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn; cái tiếng thì thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến thế đối với nhiều lớp người trong hành trình cuộc đời giữa bao thăng trầm của lịch sử. Cuốn tiểu thuyết tự tách ra một lối riêng, giữa bao nhiêu kiểu dạng giống nhau hoặc khác nhau, từ văn xuôi lãng mạn sang văn xuôi tả chân – xã hội; và trong khi trung thành đến từng chi tiết của đời riêng và tràn ngập những chuyện đời tư, trong khi hội nhập được hai mặt tương phản của sống và chết, của sự sống và cái chết trong một định nghĩa mòn lại nói được bao điều vừa tủn mủn vừa lớn lao của nhân thế. *** Để nói về đóng góp của Nam Cao, tôi muốn gom lại trong một vài nghịch lý. Trước 1945, gần như Nam Cao không viết gì khác ngoài bản thân mình, và làng quê mình. Tất cả những Thứ, Điền, Hộ, rồi những gã, hắn, y được Nam Cao đưa vào truyện như là tự truyện của mình, như là tấm gương của chính đời mình. Thế mà rồi không chỉ một lớp người một thời có thể vận vào mình, mà cho đến hôm nay, không biết bao tầng lớp, bao thế hệ có chung tên gọi tri thức, vẫn cứ thấy bóng dáng mình trên từng trang văn Nam Cao, trong bươn chải, vật lộn để chống đói, để khỏi chết đói, và để thoát… mòn. Nam Cao không viết gì khác ngoài cái làng Vũ Đại quê ông. Nhưng rồi ra, dường như tất cả những cái làng quê Việt Nam tiền Cách mạng đều được thu nhỏ vào đấy, với sự lưu cữu, sự xếp lớp nhiều tầng các mặt tốt – xấu, vừa trái ngược nhau vừa bổ sung cho nhau. Những chuyện no đói và sống chết. Ma chay và cưới xin. Xó bếp và chốn đình trung. Mua danh và đi làm mõ… Rồi ăn và mặc. Làm lụng và sinh nhai. Chuyện con chó của Lão Hạc có tên cậu Vàng, lại chuyện người hẳn hoi có tên cái Cún con hoặc anh đĩ Chuột. Nhưng kỳ lạ thay, cho đến nay, cái tên làng Vũ Đại vẫn chưa chịu lùi hẳn vào quên lãng. Vũ Đại – không chỉ gợi một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy tre, vườn chuối, giàn trầu quen thuộc, mà còn là biểu tượng chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ quần thể cư dân nào, cả nông thôn và thành thị. Rồi còn là Chí Phèo, và nói Chí Phèo không được quên Thị Nở, một “cặp đôi” gần như “hoàn hảo”. Chí Phèo là cư dân của làng Vũ Đại. Nhưng cho đến hôm nay Chí Phèo là của khắp nơi. Anh nông dân cố cùng Chí Phèo không có tuổi trong cái truyện ra mắt cách đây 75 năm, bây giờ thật là trường thọ, và cũng không còn là của riêng làng Vũ Đại. Chí Phèo trong truyện của Nam Cao chưa bao giờ ra tỉnh, nhưng biểu tượng Chí Phèo hôm nay có mặt ở mọi công sở, cơ quan, trường học, bệnh viện. Bởi lẽ anh ta đã trở thành đại diện cho cái phần bản năng, phần khùng điên, khuất tối ở con người. Chí Phèo, ấy còn là cả một ám ảnh cho không ít quần thể người, cho không biết bao người lương thiện. Những gì của Nam Cao, in dấu ấn Nam Cao, mang giọng điệu Nam Cao, thành sở hữu của Nam Cao đã được đón nhận ở tính phổ quát của nó, tính đại diện của nó; và ở nghịch lý này mang đầy đủ nhất giá trị văn học của tác phẩm, mang rõ nét nhất chất văn ở một tác giả. Nam Cao – chỉ bút danh ấy đủ nói với ta về sống mòn và chết mòn, về đời thừa và nước mắt, về giăng sáng và nửa đêm, về một bữa no và đòn chồng, về cười và điếu văn, về truyện tình và những chuyện không muốn viết, về những cánh hoa tàn và một cái mặt không chơi được1… Tóm lại, đó là cả một trữ lượng bên trong, một của kho dư đầy về con người và đất nước, về trí thức và nông dân, về nông thôn và thành thị, về người lớn và trẻ con, về đàn ông và đàn bà, về những người lành lặn và những kẻ dị dạng…, những vế vừa gắn bó, vừa như đối lập, thế nhưng bao giờ cũng tìm được sự hội tụ và hòa hợp ở văn ông. Có lẽ rõ hơn một số người viết khác, ở Nam Cao – đời sống và đời văn là gắn bó với nhau như hai mặt một tờ giấy mỏng, soi bên này mà thấy cả bên kia. Soi vào văn ông để thấy đời; và soi vào đời để nhận thêm các giá trị từ những trang văn im lặng. *** Từ trạng thái chết mòn của một thế hệ trí thức, và từ những cái chết thật vì đói hoặc vì khùng điên của người nông dân một vùng quê, Nam Cao đã đón nhận Cách mạng tháng Tám thật sự như một cuộc đổi đời. Nhà văn mảnh khảnh, cao gầy, dáng thư sinh, với bản tính rụt rè, ít khi nói to đã tham gia gần như đủ đầy tất cả những hoạt động xã hội của làng quê và của đoàn thể – từ là Chủ tịch xã, làm báo, viết tin, tham gia đoàn quân Nam tiến, rời quê ra Hà Nội, rồi lên Việt Bắc, ở rừng, làm báo Cứu quốc, về Hội văn nghệ, đi chiến dịch Biên giới, rồi vào vùng địch hậu Khu Ba. Ngót 6 năm cho một hành trình cùng nhân dân, từ nông thôn ra thành thị, từ miền xuôi lên miền núi, cùng bộ đội và dân công, với vũ khí vẫn chỉ là ngòi bút và trang viết – những trang viết gắng theo kịp những chuyển động muôn mặt của sự sống, và là một sự sống gắng được soi nhìn bằng một đôi mắt mới, nên rất sớm chuyển được vào đường ray cách mạng. Cách mạng, như chính một tên truyện của Nam Cao in trên Tiên phong số 18 9/1946, với dòng kết thúc “Cách mạng! Mày gây va chạm và chém giết, nhưng chính mày lại mở lối cho con người tiến lên hòa bình”. Sứ mệnh dựng xây, tạo nên cái mới từ trong lầm than, cũ nát của chế độ cũ luôn luôn là mục tiêu nhe nhắm của Nam Cao qua nhiều trang bút ký, nhật ký, ghi chép như Đường vô Nam, Người Việt mới, Bốn cây số cách một căn cứ địch, Ở rừng, Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng… Đồng thời là sự soi xét lại kỹ lưỡng con người mình trong đối chiếu với sự sống của quần chúng để loại bỏ dần những ủy mị, bi quan không dễ dứt bỏ ở một con người giàu sự sống nội tâm và cả nghĩ như Nam Cao. Và, khi ngòi bút đã là vũ khí thì đối tượng viết trước hết phải là cho số đông, những người còn chưa biết chữ hoặc đang thanh toán nạn mù chữ, cũng có nghĩa là phải hy sinh một phần nghệ thuật. Làm báo trong những ngày “ở rừng”, người duyệt bài đầu tiên của Nam Cao là chú giao thông người Thổ có tên Mộc. Bản thảo Chuyện biên giới viết xong ngay sau khi chiến dịch kết thúc, Nam Cao tự nguyện cắt bỏ từ hàng trăm trang còn dăm chục trang cho gọn gàng, dễ đọc. Viết, và viết – Nam Cao không ngại bất cứ mọi đặt hàng nào của đoàn thể. Viết sách địa lý phổ thông các nước châu Âu, châu Á, châu Phi. Viết bút ký Định mức và kịch Đóng góp phục vụ chính sách Tạm vay và Thuế nông nghiệp. Viết Hội nghị nói thẳng để phục vụ cho công tác tuyên truyền trong quân đội… Thế nhưng tận trong thâm sâu, Nam Cao vẫn nuôi mơ ước viết được một cái gì cho xứng với nghề nghiệp mình theo đuổi. Mơ ước ấy cũng đã một lần Nam Cao chạm được vào nó. Đó là mấy ngày Tết đầu 1948, nơi một làng Mán heo hút ở Vàng Kheo, để “cho đỡ nhớ”, Nam Cao viết xong rất nhanh truyện ngắn Tiên sư anh Tào Tháo. Cũng vẫn là chuyện mình, chuyện của anh nhà văn xưng “tôi” có tên Độ. Nhưng có khác với những Thứ, Điền, Hộ trước đây hoặc “ngày xưa”, Độ bây giờ có một “đôi mắt” mới để đối thoại một cách e dè, khiêm nhường, không chút lên giọng với một bạn văn rất quen thuộc của mình trước đây là văn sĩ Hoàng. Nhiều năm về sau, sau khi truyện được đăng trên Tạp chí Văn Nghệ số 3/1948 với tên mới là Đôi mắt, truyện này được giới nghiên cứu và giảng dạy văn học xem là một “tuyên ngôn nghệ thuật” của Nam Cao; dẫu với cái tạng quen thuộc của mình, ngay ở truyện này, theo tôi nghĩ, Nam Cao cũng không hề có ý định… tuyên ngôn với bất cứ ai. Trở lại những ngày đầu cách mạng, trong bề bộn bao nhiêu việc lớn, Nam Cao bỗng xuất hiện trong một truyện ngắn có tên Mò sâm banh được viết rất nhanh và in ngay trên Tiên Phong số 2 Đây là một trong số các kiệt tác truyện ngắn Nam Cao, ghi nhận một chuyển đổi rất mới của đề tài. Đó là truyện về một người nông dân đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh… thành phố. Ở đó, trong vai đầu bếp cho một ông chủ Tây lẳng lặng, không lời bởi cả hai không có phiên dịch, anh ta đã đánh mất mạng sống của đứa con trai trong bể nước chỉ vì để rơi một chai sâm banh của chủ… Hơn hai năm sau là sự xuất hiện của Đôi mắt, cũng được viết rất nhanh, ghi nhận một chuyển đổi quan trọng trong quan niệm nghệ thuật. Và, sau Đôi mắt là một ấp ủ đến nung nấu cho một tiểu thuyết về chính làng quê Vũ Đại của mình, trên một bản thảo đã hai lần bị Nam Cao xé bỏ. Chính trong tâm thế đó mà có chuyến công tác “định mệnh” vào ngày 30 tháng khiến Chúng ta mất Nam Cao; như tên một bài viết thật cảm động của người bạn thân thiết nhất của ông – Tô Hoài. Thuộc trong số người viết văn sớm hy sinh cho Tổ quốc, và nếu chỉ tính thế hệ thành danh trước 1945 thì Nam Cao là người duy nhất, hy sinh ở tuổi đời 36, và tuổi nghề chỉ trên 10 năm. Mười năm – một sự nghiệp gắn nối hai giai đoạn trước và sau 1945; cả hai kết thành một phù điêu bất hủ trong lịch sử văn chương Việt hiện đại. GS PHONG LÊ Văn Nghệ số 49/2021 Xem thêm [Video] – Nhịp điệu mới’ của Ngày thơ Việt Nam lần thứ 21 Nồng ấm Lễ trao giải Cuộc thi viết Về nhà “Tiên học lễ, hậu học văn” – câu khẩu hiệu có cần phải bỏ? Nhìn lại 10 năm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO ghi danh “Bộ trưởng giải vây” Nguyễn Cơ Thạch “Rủ nhau chơi khắp Long Thành, Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai; Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay, Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy, Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn, Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Ngang, Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng, Hàng Muối, Hàng Nón, cầu Đông, Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè, Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre, Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà. Quanh đi đến phố Hàng Da, Trải xem Hàng phố, thật là cũng xinh. Phố hoa thứ nhất Long Thành, Phố dăng mắc cửi, đàn quanh bàn cờ. Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ, Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền”. Tài liệu "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" có mã là 449619, file định dạng doc, có 8 trang, dung lượng file 75 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Tài liệu phổ thông > Ngữ văn > Ngữ Văn Lớp 11. Tài liệu thuộc loại ĐồngNội dung Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 8 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Truyện ngắn Một Đám cưới Nam CaoTrên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Truyện ngắn Một Đám, hoặc là Truyện ngắn Một Đám tìm được nội dung có tiêu đề chính xác nhất bạn có thể sử dụng Truyện ngắn Một Đám cưới có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Truyen ngan Mot Dam, Truyen ngan Mot Dam cuoi, Truyen ngan Mot Dam cuoi Nam, đều cho ra kết quả chính xác. Truyện ngắn Một Đám cưới Truyện ngắn Truyện ngắn Một Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Nam cưới Một Cao Đám ngắn Truyện ngắn Truyện ngắn Một Đám Truyện Một Đám cưới Nam Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Cao" Tài liệu vừa xem Truyện ngắn Một Đám Truyện ngắn Một Đám cưới Nam Truyện ngắn Một Truyện ngắn Một Đám cưới Truyện ngắn Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi Xế chiều hôm ấy, bà mẹ chồng và chồng Dần đến. Cả hai cùng mặc quần áo cánh. Bà mẹ khoác một cái áo nâu dài đã bạc ở trên vai. Chú rể xách một chẽ cau, chừng một chục quả. Vào đến nhà, y lúng túng không biết đặt đâu. Bà mẹ trông thấy bảo Dần - Cho bu mượn cái đĩa đi, con! Mặt Dần đã đỏ bừng. Hai đứa em nó, trông thấy, cười rúc rích. Nó lợi dụng câu sai của mẹ chồng, để chạy tót ra chái đứng. Một lúc lâu nó cũng không vào. Thầy nó phải đỡ lấy chẽ cau ở tay bà mẹ chồng, đặt lên giường thờ mẹ nó. Rồi thầy nó nói thật to - Đi nấu nước đi con! Không thấy con gái thưa, ông phải bảo thằng con trai lớn - Chạy ra bảo chị đun ấm nước. Rồi ông thân hành đi lấy chìa vôi ra để têm trầu. Bà mẹ chồng có lời ngay - Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu, mà xét ra, như thế này thì thật ông thương quá, thương mọi nhẽ, cái gì ông cũng châm chước đi cho cả, khiến chúng tôi cảm tạ cái bụng ông mà lại lấy làm xấu hổ về cái cách chúng tôi xử lắm. Chúng tôi xử thế này thật quả là không phải. Nhưng lạy Trời, lạy Đất!.. Chúng tôi cũng muốn nghĩ thế nào kia nhưng ông trời ông ấy chỉ cho nghĩ đến thế thôi, thì cũng phải rầu lòng mà chín bỏ làm mười, chứ như ông thì thật một bỏ làm mười, mà không được một cũng bỏ làm mười. Có vậy thì công việc của cháu mới xong xuôi được. Giá phải bố vợ như bố vợ nhà khác, nhất nhất cái gì cũng bắt đủ lề lối, thì nhà như chúng tôi lấy gì mà lo được? Ít là cháu suốt đời không có vợ. Nhưng phúc làm sao, lại gặp được ông bố vợ thương con rể như ông, thì có phải ông trời ông ấy cũng còn thương nhà chúng tôi lắm lắm không? Thôi thì bây giờ mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi trầu đến kêu với ông để ông cho cháu được lễ các cụ - trước là lễ gia tiên, sau là lễ bác nhà ta, sau nữa ông lại cho cháu lễ sống ông, chẳng có tiền bạc gạo lợn, hay mâm cao cỗ đầy thì cũng phải lấy đầu làm lễ gọi là chút lòng thành của con, cháu các cụ - rồi xin phép ông để chúng tôi đưa cháu về nhà làm ăn. Đáp lại bao nhiêu lời bóng bẩy, xa xôi ấy, ông bố vợ chỉ trả lời gọn thon lỏn một câu - Vâng! Mời bà cứ ngồi chơi thư thả xơi nước, xơi trầu đã. Rồi ông lại cất cao giọng, bảo con - Hễ được nước thì bắc lên đây, con nhé! Rồi ông ngồi lử thử. Bởi vì ông buồn lắm. Chỉ lát nữa là người ta rước Dần đi. Đêm hôm nay, chỉ còn mình ông với hai đứa trẻ con. Nhà sẽ vắng ngắt vắng ngơ, chẳng khác gì ngày vợ ông mới chết đi. Rồi chỉ mươi bữa, nửa tháng là ông phải bỏ nốt hai đứa con trai để ngược.. Chao ôi! Buồn biết mấy? Ông đờ đẫn cả người. Ông nghĩ bụng rằng Giá Dần không phải về nhà người ta, thì có lẽ chẳng đời nào ông phải lên rừng; ông cứ ở nhà với ba con, bố con đùm bọc lấy nhau, bây giờ bỏ lại hai đứa bé mà đi, ông thương chúng nó quá.. À, thì ra ông phải đi nơi khác làm ăn, chẳng phải vì cớ gì khác mà chỉ vì Dần phải đi lấy chồng, Dần đi lấy chồng, không ai trông coi vườn đất, nhà cửa, con cái cho ông nữa.. Ông buồn quá. Ông đáp lại những câu rất dài dòng của bà thông gia bằng những câu ngắn ngủn. Bà thông gia, trái lại nhiều lời lắm. Bà vui vẻ. Bà nói luôn. Bởi tài ăn nói của người ta, một đời mới có dịp dùng đến độ vài lần. Bà thì chỉ một lần thôi, bởi vì bà có mỗi một mống con trai. Lấy một con vợ cho con, có dễ đâu? Nhất là mình lại không có nhiều tiền. Công việc phải qua mấy mươi nấc, mấy mươi cầu. Chưa cưới được vợ về cho con, thì còn là đi lại mỏi chân, van ông lạy bà sái hàm răng.. Công việc của bà, mười phần xong đến chín phần rồi. Còn một tí chút nữa mà thôi. Tội gì không ngọt ngào với người ta cho yên ổn cả? Người ta gả con gái, đã chẳng được gì thì cũng phải được lời nói mát lòng, mát ruột cho hả dạ.. Đến tối, đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái nhà trai. Ông bố vợ đã tưởng không đi. Nhưng bà mẹ chồng cố mời. Vả lại nếu ông không đi, thì hai đứa bé cũng không thể đi mà Dần thì đang khóc lóc. Nếu chỉ có mình nó ra đi thì có lẽ nó cũng không chịu nốt. Ông đành kéo mấy cành rào lấp ngõ rồi đi vậy. Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần sồng cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá, đã xé cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc, đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ.. Câu 1 Đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Tác giả là ai? Câu 2 Nêu nội dung tác giả đề cập đến trong đoạn trích trên. Câu 3 Tác giả thể hiện tâm tư, tình cảm gì thông qua đoạn trích trên? Câu 4 Nêu cảm nhận của anh/chị sau khi đọc đoạn trích trên. Viết từ 7 - 10 dòng Câu 1 Đoạn trích trên thuộc tác phẩm Một đám cưới của tác giả Nam Cao. Câu 2 Nội dung Cảnh tượng đám cưới nghèo diễn ra hết sức đơn sơ, ảm đạm, buồn hiu hắt. Câu 3 Thông qua đoạn trích, tác giả thể hiện tâm tư, tình cảm xót thương, cảm thông và thấu hiểu cho những con người có đời sống nghèo nàn, vất vả, cơ cực và lầm than trong xã hội thời kì trước cách mạng tháng Tám. Từ đó ta thấy được tư tưởng, tấm lòng của tác giả dành cho người dân nghèo khổ. Thông qua cảnh đám cưới được tác giả miêu tả rõ nét, ta cảm nhận được không khí hết sức ảm đạm, đìu hiu, vắng lặng dâng lên niềm thương cảm, sự nghẹn ngào và chua xót. Câu 4 Cảm nhận "Một đám cưới" là tác phẩm của tác giả Nam Cao gây xúc động người đọc. Đám cưới diễn ra trong hoàn cảnh nghèo nàn, không có nhiều lễ lộc, quần áo cô dâu rách nát, bố vợ buồn rầu, chất chứa bao nỗi niềm tâm sự cũng chẳng nói nên thành lời. Chưa bao giờ cảnh đám cưới diễn ra buồn, thê lương như vậy. Tác giả đã tái hiện lại cảnh tượng đám cưới trong giai đoạn trước cách mạng tháng 8 khiến người đọc khỏi xúc động, thương xót cho thân phận con người nghèo khổ. Các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm được tác giả miêu tả hết sức sinh động, chân thực và gần gũi. Đọc tác phẩm, ta sẽ cái nhìn đầy thấu hiểu, cảm thông và yêu thương cho những con người nghèo khó. Cảnh tượng những con người dìu dắt, nâng đỡ nhau trong cảnh đưa dâu thể hiện được tình yêu thương, sự đùn bọc, chở che nhau trước bao sóng gió, bão tố của cuộc đời. Từ đó, thấy được tầm vóc, tấm lòng, tình cảm của tác giả dành cho người dân nghèo trước cách mạng tháng 8. Những con người tuy có đời sống cơ cực, vất vả, nghèo khổ, nhưng luôn có trái tim biết lắng nghe, cảm thông và yêu thương. ngữ văn 11 đọc hiểu

một đám cưới nam cao